Bệnh nhân parkinson là gì? Các công bố khoa học về Bệnh nhân parkinson

Bệnh Parkinson là một căn bệnh mạn tính ảnh hưởng đến hệ thần kinh gây ra các triệu chứng chính là run và cứng cơ, gây khó khăn trong việc đi lại và thực hiện c...

Bệnh Parkinson là một căn bệnh mạn tính ảnh hưởng đến hệ thần kinh gây ra các triệu chứng chính là run và cứng cơ, gây khó khăn trong việc đi lại và thực hiện các chuyển động. Bệnh này xuất hiện do mất mát các tế bào thần kinh màu đen và sự suy giảm sản xuất dopamine trong não. Triệu chứng phổ biến khác của bệnh Parkinson có thể bao gồm rung chân, khó ngủ, khó điều khiển các cử động, khó điều khiển cơ bắp, giảm khả năng nói và viết, nhức đầu và rối loạn giấc ngủ. Bệnh Parkinson không có phương pháp chữa trị hoàn toàn, nhưng có thể được điều chỉnh bằng thuốc, dưỡng sinh và các phương pháp điều trị bổ sung.
Bệnh Parkinson được coi là một loại bệnh thần kinh năm hội chứng, nghĩa là làm suy yếu và suy giảm chất lượng cuộc sống của những người mắc bệnh. Bệnh này thường bắt đầu ở người trung niên và cao tuổi, và có thể tiến triển dần theo thời gian.

Triệu chứng chính của bệnh Parkinson là run và cứng cơ. Run thường xuất hiện ở cả hai bàn tay và chân, thường là một nét run nhẹ ban đầu nhưng có thể trở nên nghiêm trọng hơn sau này. Cứng cơ gây ra sự khó khăn trong việc di chuyển và thực hiện các chuyển động. Các cơ bắp trở nên cứng và khó linh hoạt, dẫn đến khả năng di chuyển kém linh hoạt và có thể dẫn đến khả năng nói và viết kém.

Ngoài ra, bệnh Parkinson còn có thể gây ra các triệu chứng khác như: khó ngủ, mất cảm giác về mùi, giảm liên tục trong việc ngửi, khó điều khiển các cử động, mất cân bằng và rối loạn giấc ngủ.

Nguyên nhân chính của bệnh Parkinson chưa được rõ ràng, nhưng trạng thái không cân bằng của hệ thống dopamine trong não được cho là ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của bệnh. Dopamine là một chất truyền thông tin thần kinh quan trọng trong não, giúp điều chỉnh các chuyển động và tương tác với các vùng khác trong hệ thần kinh.

Hiện chưa có phương pháp chữa trị hoàn toàn cho bệnh Parkinson, nhưng có thể sử dụng các loại thuốc để kiểm soát và ổn định triệu chứng. Điều trị bổ sung như thực hiện các bài tập thể dục và vận động, chế độ ăn uống lành mạnh và sử dụng các phương pháp thay thế dopamine có thể cải thiện chất lượng cuộc sống của những người sống với bệnh Parkinson.

Bệnh Parkinson không gây nguy hiểm đến tính mạng, nhưng nó có thể làm mất khả năng tự chăm sóc và tự lực. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ và sự quản lý chăm sóc thích hợp, những người mắc bệnh Parkinson có thể sống khá thoải mái và duy trì một chất lượng cuộc sống tốt.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bệnh nhân parkinson":

Biến thể BDNF Val66Met liên quan đến suy giảm nhận thức ở bệnh nhân mắc bệnh Parkinson người Ý Dịch bởi AI
European Journal of Neurology - Tập 16 Số 11 - Trang 1240-1245 - 2009
Nền tảng và mục tiêu:  Một mối liên hệ khả thi giữa bệnh Parkinson (PD) và đa hình gen của Yếu tố dinh dưỡng thần kinh có nguồn gốc từ não (BDNF) G196A (Val66Met) đã được nhiều nghiên cứu chỉ ra, tuy nhiên các kết quả thu được lại trái ngược nhau. Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích mối liên hệ khả thi này ở một nhóm bệnh nhân PD người Ý.Phương pháp:  Các đa hình BDNF đã được phân tích trong 294 bệnh nhân Ý mắc PD; kết quả được so sánh với những kết quả thu được từ 233 người làm chứng khỏe mạnh (HC) được tuyển chọn theo độ tuổi và giới tính từ hai trung tâm cấp ba ở Ý. Các đa hình được xác định thông qua phân tích Độ dài đoạn phân cắt hạn chế (RFLP); mối tương quan giữa đa hình BDNF G196A và chức năng nhận thức được xác lập bằng cách phân tích phụ các kết quả dựa trên việc phân chia bệnh nhân PD dựa trên điểm số của Bài kiểm tra trạng thái tinh thần Mini (MMSE).
Trầm cảm và lo âu ở bệnh nhân Parkinson: tần suất, yếu tố nguy cơ và tác động đến chất lượng cuộc sống Dịch bởi AI
The Egyptian Journal of Neurology, Psychiatry and Neurosurgery - Tập 56 Số 1 - 2020
Tóm tắt Đặt vấn đề Trầm cảm và lo âu là những triệu chứng không vận động của bệnh Parkinson (PD) thường bị bỏ qua và đánh giá thấp. Nghiên cứu này nhằm làm nổi bật tần suất và các yếu tố nguy cơ của trầm cảm và lo âu ở những đối tượng mắc PD. Phương pháp Sáu mươi bốn bệnh nhân mắc PD được chẩn đoán theo tiêu chí của Ngân hàng Não của Hiệp hội Bệnh Parkinson Vương quốc Anh (UKPDS) và 50 đối tượng kiểm soát khỏe mạnh tương ứng về giới và độ tuổi đã được đánh giá về trầm cảm và lo âu. Mức độ và giai đoạn của PD được đánh giá bằng Thang đo Đánh giá Bệnh Parkinson Thống nhất (UPDRS) và thang đo Hoehn và Yahr. Trầm cảm và lo âu được chẩn đoán theo tiêu chí DSM-IV TR và ghi điểm bằng Thang đo Trầm cảm Hamilton và Thang đo Lo âu Hamilton (HAM-D và HAM-A). Chất lượng cuộc sống được đánh giá bằng bộ công cụ WHOQOL-BREF để xác định tác động của trầm cảm và lo âu lên chất lượng cuộc sống.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN PARKINSON THỂ CỨNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và chất lượng cuộc sống (Quality of Life – QoL) của bệnh nhân Parkinson thể cứng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 60 bệnh nhân Parkinson thể cứng tại Bệnh viện Lão khoa Trung Ương từ tháng 08 năm 2020 đến tháng 06 năm 2021, chẩn đoán bệnh Parkinson theo tiêu chuẩn của Ngân hàng não hội Parkinson Vương quốc Anh (UKPDSBB/United Kingdom Parkinson’s Disease Society Brain Bank), tiêu chuẩn thể cứng theo Thang điểm đánh giá bệnh nhân Parkinson (UPDRS), chất lượng cuộc sống bệnh nhân theo Thang điểm đánh giá chất lượng cuộc sống bệnh nhân Parkinson PDQ-39 (Parkinson’s Disease Questionnaire). Kết quả:Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 68,3±8, tỉ lệ nam 56,7% và nữ là 43,3%. Giảm vận động là triệu chứng khởi phát về vận động thường gặp nhất (93.3%), khởi phát ngoài vận động thường gặp là đau vai gáy (56,7%) và rối loạn giấc ngủ (43,3%). Đối tượng nghiên cứu thuộc giai đoạn III chiếm tỷ lệ cao nhất là 40%. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân Parkinson thể cứng ở lĩnh vực khả năng đi lại và hoạt động hằng ngày bị ảnh hưởng nhiều nhất với điểm trung bình theo PDQ-39 là 46,0±30,0 và 49,4±30,5. Nhóm bệnh nhân ở giai đoạn trung bình - nặng (giai đoạn III,IV,V), nhómcó thời gian mắc bệnh trên 5 năm hoặc những bệnh nhân trên 60 tuổi đều có chất lượng cuộc sống tồi tệ hơn so với nhóm còn lại, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết luận: Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân Parkinson thể cứng bị ảnh hưởng nhiều, vì vậy rất cần sự quan tâm, chăm sóc toàn diện từ đội ngũ y tế và gia đình.
#Bệnh Parkinson #thể cứng #chất lượng cuộc sống
Vai trò của trục Nurr1-miR-30e-5p-NLRP3 trong chứng thoái hóa thần kinh do viêm: những hiểu biết từ các mô hình chuột và nghiên cứu trên bệnh nhân trong bệnh Parkinson Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC -
Tóm tắtReceptor hạt nhân liên quan-1 (Nurr1), một yếu tố phiên mã được kích hoạt bởi ligand, được coi là một gen nhạy cảm tiềm năng đối với bệnh Parkinson (PD), và đã được chứng minh là có tác dụng bảo vệ chống lại thiệt hại tế bào thần kinh do viêm. Mặc dù có bằng chứng cho thấy mức độ NURR1 giảm và gia tăng các cytokine pro-inflammatory trong các mô hình tế bào và động vật cũng như trong các tế bào đơn nhân máu ngoại vi (PBMC) của bệnh nhân PD, cơ chế tiềm ẩn vẫn chưa được làm sáng tỏ. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã điều tra cơ chế phân tử của Nurr1 trong viêm liên quan đến PD. Thông qua việc phân tích miRNA và xác minh trong PBMC từ một nhóm gồm 450 cá nhân, chúng tôi đã phát hiện một sự thay đổi đáng kể của một miRNA phụ thuộc vào Nurr1, miR-30e-5p, ở bệnh nhân PD so với các đối chứng khỏe mạnh (HC). Thêm vào đó, bệnh nhân PD có mức interleukin-1β (IL-1β) trong huyết tương cao hơn và biểu hiện protein thụ thể kiểu miền gắn nucleotide (NLRP3) tăng lên trong PBMC so với HC. Các phân tích thống kê cho thấy có mối tương quan đáng kể giữa các mức độ NURR1, miR-30e-5p và NLRP3 trong PBMC của bệnh nhân PD. Để khám phá thêm sự tham gia của trục Nurr1-miR-30e-5p-NLRP3 trong bệnh lý PD do viêm, chúng tôi đã phát triển một mô hình chuột (Nurr1flox+/Cd11b−cre+, Nurr1cKO) loại bỏ có điều kiện Nurr1 trong các tế bào biểu hiện Cd11b. Các nghiên cứu của chúng tôi trên chuột Nurr1cKO đã phát hiện một sự thoái hóa thần kinh dopaminergic đáng kể sau viêm gây ra bởi lipopolysaccharide. Đáng chú ý, sự thiếu hụt Nurr1 kích hoạt sự hoạt hóa microglia và kích hoạt inflammasome NLRP3, dẫn đến sự tiết tăng cường IL-1β. Ngẫu nhiên, chúng tôi phát hiện rằng mức miR-30e-5p giảm đáng kể trong PBMC và microglia nguyên thủy của chuột Nurr1cKO so với các đối chứng. Hơn nữa, các thí nghiệm in vitro của chúng tôi cho thấy miR-30e-5p nhắm mục tiêu cụ thể vào NLRP3. Trong microglia thiếu hụt Nurr1, biểu hiện NLRP3 được điều hòa tăng lên thông qua miR-30e-5p. Tóm lại, những phát hiện của chúng tôi làm nổi bật sự tham gia của trục Nurr1-miR-30e-5p-NLRP3 trong sự thoái hóa thần kinh do viêm trong PD, kết quả của nghiên cứu này có thể cung cấp triển vọng hứa hẹn cho việc phát triển biomarkers PD và can thiệp điều trị mục tiêu.
#Nurr1 #miR-30e-5p #NLRP3 #Parkinson #viêm #thoái hóa thần kinh
Gánh nặng chăm sóc bệnh nhân Parkinson có tăng huyết áp và mối liên quan với các đặc điểm của người chăm sóc
Mục tiêu: Đánh giá gánh nặng chăm sóc bệnh nhân Parkinson có tăng huyết áp và mối liên quan với các đặc điểm của người chăm sóc. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 50 nguời bệnh Parkinson điều trị tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương từ tháng 7/2021 đến tháng 07/2022 và 50 người chăm sóc. Đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn theo bộ câu hỏi được thiết kế sẵn, gánh nặng chăm sóc bệnh nhân Parkinson được đánh giá bằng sử bộ câu hỏi Zarit (Zarit Burden Interview). Kết quả: Điểm trung bình của Zarit là 23,52 ± 13,84 trong đó gánh nặng chăm sóc bệnh nhân có tăng huyết áp độ II trung bình là 29,41 ± 15,891 cao hơn đáng kể so với bệnh nhân Parkinson tăng huyết áp độ I là 18,89 ± 10,038. Gánh nặng chăm sóc liên quan đến các đặc điểm của người chăm sóc: Liên quan thuận chiều tuổi người chăm sóc, thời gian chăm sóc, các rối loạn lo âu, trầm cảm, căng thẳng. Kết luận: Cần có các biện pháp can thiệp giảm áp lực và gánh nặng cho người chăm sóc bệnh nhân Parkinson có tăng huyết áp.
#Gánh nặng chăm sóc #bệnh nhân Parkinson #người chăm sóc
Xác định đột biến gen LRRK2 ở bệnh nhân Parkinson
 Gen LRRK2 là một gen khá lớn nằm trên nhiễm sắc thể 12 với chiều dài 144 kb, bao gồm 51 exon mã hóa 2527acid amin có vai trò quan trọng trong việc khởi động quá trình dịch mã ở tế bào. Đột biến gen LRRK2 chiếm khoảng5 - 10% bệnh nhân Parkinson có tiền sử gia đình, di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường và chiếm khoảng 3,6%bệnh nhân Parkinson không có tiền sử gia đình. LRRK2 là một protein lớn, đa miền với các đột biến gây bệnh rảirác trải dài cả gen. Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục đích xác định đột biến của gen LRRK2 ởbệnh nhân Parkinson bằng phương pháp giải trình tự gen trực tiếp. Nghiên cứu được tiến hành trên 30 bệnh nhânđược chẩn đoán Parkinson. Kỹ thuật giải trình tự gen trực tiếp được sử dụng để xác định đột biến gen LRRK2. Kếtquả tỷ lệ có đột biến chiếm 16,7%, không có đột biến 83,3%. Độ tuổi trung bình 55,9 ± 9,5. Tỷ lệ nam/nữ = 1,
#Parkinson #đột biến gen #LRRK2
NGHIÊN CỨU NỒNG ĐỘ DOPAMIN CÙNG CÁC CHẤT CHUYỂN HÓA CỦA DOPAMIN TRONG DỊCH NÃO TỦY VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI MỘT SỐ BIỂU HIỆN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN MẮC BỆNH PARKINSON
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Nghiên cứu nồng độ dopamin cùng các chất chuyển hóa của dopamin (DOPAC) trong dịch não tủy và mối liên quan với một số biểu hiện lâm sàng ở bệnh nhân mắc bệnh Parkinson. Đối tượng và phương pháp: Tiến cứu, mô tả cắt ngang có so sánh với nhóm chứng. Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện. Xét nghiệm định lượng nồng độ dopamin, DOPAC dịch não tủy cho cả nhóm bệnh và nhóm chứng. Kết quả: Nồng độ dopamin dịch não tủy ở nhóm chứng giá trị trung bình là 31,85 ± 12,56 pg/ml trong khi ở nhóm bệnh nhân Parkinson là 20,10 ± 3,52 pg/ml. Nồng độ DOPAC dịch não tủy ở nhóm chứng giá trị trung bình là 7,03 ± 4,14 ng/ml trong khi ở bệnh nhóm bệnh nhân Parkinson là 3,75 ± 3,00 pg/ml. Nồng độ dopamin, DOPAC dịch não tủy giảm dần từ giai đoạn bệnh 1 đến giai đoạn 4,5. Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Nồng độ dopamin, DOPAC dịch não tủy giảm dần từ mức độ bệnh nhẹ đến mức độ nặng và rất nặng. Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Nồng độ dopamin, DOPAC dịch não tủy giảm dần từ không bị trầm cảm đến trầm cảm mức độ nhẹ, vừa và nặng. Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Có sự tương quan nghịch có nghĩa thống kê giữa nồng độ dopamin dịch não tủy với thời gian mắc bệnh (R = -0,764, p< 0,001). Có sự tương quan nghịch có nghĩa thống kê giữa nồng độ DOPAC dịch não tủy với thời gian mắc bệnh (R = -0,690, p< 0,001). Kết luận: Nghiên cứu chúng tôi cho thấy có sự giảm đáng kể nồng độ dopamin, DOPAC dịch não tủy ở bệnh nhân Parkinson so với nhóm chứng, mức độ bệnh càng nặng, giai đoạn bệnh càng tăng thì nồng độ dopamin, DOPAC dịch não tủy càng giảm. Có Có sự tương quan nghịch có nghĩa thống kê giữa nồng độ dopamine, DOPAC dịch não tủy với thời gian mắc bệnh.
#Bệnh Parkinson #Nồng độ dopamine dịch não tủy #Nồng độ DOPAC dịch não tủy
1. Xác định đột biến gen GBA trên bệnh nhân Parkinson
Gen GBA, mã hoá ra một lysosome enzyme Gcase, nằm trên nhiễm sắc thể 1q21, gồm 11 exon và 10 intron. Ở những bệnh nhân suy giảm hoạt độ GCase, hàm lượng α-synuclein trong tế bào bị giảm mạnh và chức năng của lysosome bị tổn hại, dẫn đến chết tế bào thần kinh dopaminergic và biểu hiện những kiểu hình đặc trưng của bệnh Parkinson. Đột biến gen GBA chiếm khoảng 2 - 30% bệnh nhân Parkinson, dựa trên nhiều nghiên cứu trên các chủng tộc và vùng địa lý khác nhau. Việc xác định đột biến trên gen GBA ở bệnh nhân Parkinson có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tình trạng bệnh cũng như là cơ sở để các bác sĩ lâm sàng đưa ra tiên lượng bệnh và tư vấn di truyền. Nghiên cứu này được thực hiện trên 30 bệnh nhân được chẩn đoán Parkinson tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương. Độ tuổi trung bình tham gia nghiên cứu là 55,6 ± 8,79 với tỷ lệ nam gấp 1,3 lần nữ. Sử dụng kỹ thuật giải trình tự gen Sanger, nghiên cứu đã phát hiện được 5/30 bệnh nhân mang đột biến gen GBA (chiếm 16,7%), với 5 dạng đột biến khác nhau. Tất cả 5 đột biến đều là đột biến dị hợp tử, dạng thay thế nucleotid.
#Parkinson #đột biến gen #GBA
Thay đổi kiến thức và thái độ tuân thủ điều trị sau giáo dục sức khỏe ở người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lạng Sơn
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 6 Số 04 - Trang 77-87 - 2023
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của can thiệp giáo dục sức khỏe đối với kiến thức và thái độ tuân thủ điều trị của bệnh nhân phổi tắc nghẽn mạn tính ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lạng Sơn trong năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp so sánh trước sau trên một nhóm duy nhất gồm 65 bệnh nhân phổi tắc nghẽn mạn tính được chọn ngẫu nhiên từ tháng 01 đến tháng 4 năm 2021. Can thiệp bao gồm việc cung cấp thông tin về bệnh, điều trị và các biện pháp phòng ngừa cho bệnh nhân. Kết quả: Sau can thiệp, kiến thức và thái độ tuân thủ điều trị của bệnh nhân có sự cải thiện rõ rệt so với trước can thiệp. Cụ thể, tỷ lệ bệnh nhân có kiến thức đúng tăng từ 41,5% lên 76,9% ngay sau can thiệp và 70,8% sau 8 tuần; tỷ lệ bệnh nhân có thái độ đúng tăng từ 56,9% lên 90,7% ngay sau can thiệp và 84,6% sau 8 tuần. Điểm kiến thức tăng từ 15,9 ± 2,4 lên 23,3 ± 5,8 ngay sau can thiệp và 22,2 ± 5,9 sau 8 tuần. Điểm thái độ tăng từ 3,9 ± 0,2 lên 4,1 ± 0,2 ngay sau can thiệp và 4,0 ± 0,2 sau 8 tuần. Sự khác biệt giữa trước và sau can thiệp là có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Kết luận: Can thiệp giáo dục sức khỏe đã góp phần nâng cao kiến thức và thái độ tuân thủ điều trị của bệnh nhân phổi tắc nghẽn mạn tính ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lạng Sơn. Do đó, việc áp dụng can thiệp này cần được duy trì và mở rộng trong chăm sóc bệnh nhân.
#Bệnh nhân phổi tắc nghẽn mạn tính #can thiệp giáo dục sức khỏe #kiến thức #thái độ #Tuân thủ điều trị #một số yếu tố liên quan #thuốc điều trị #Bệnh Parkinson.
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ ĐỘT BIẾN GEN TRÊN BỆNH NHÂN PARKINSON KHỞI PHÁT SỚM
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Đặt vấn đề: Trong những năm gần đây, bệnh Parkinson là đề tài mũi nhọn đối với các bệnh thoái hoá thần kinh. Bệnh phổ biến thứ hai sau Alzeimer và chiếm 1,6% so với các bệnh thần kinh. Trong bệnh Parkinson, đột biến gen lặn tự phát có thể làm tăng nguy cơ mắc Parkinson ở người trẻ, ngay cả khi chỉ thừa hưởng một bản sao của gen đột biến. Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân Parkinson khởi phát sớm và mô tả một số đột biến gen trên bệnh nhân Parkinson khởi phát sớm. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 30 bệnh nhân có tuổi khởi phát nhỏ hơn 50 được chẩn đoán mắc bệnh Parkinson nguyên phát theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Não thuộc Hội bệnh Parkinson Vương quốc Anh tại bệnh viện Lão Khoa trung ương, bệnh viện Bạch Mai. Trung tâm nghiên cứu Gen- Protein trường đại học Y Hà Nội, nơi tiến hành các kỹ thuật di truyền phân tử. Kết quả: tuổi khởi phát trung bình 41 với tỷ lệ nam: nữ là 1,9. Triệu chứng run hay gặp nhất với tỷ lệ 93,8%. Và đột biến gen hay gặp là GBA
#Parkinson #đột biến gen #Parkinson khởi phát trẻ
Tổng số: 70   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7